Giới thiệu Khách sạn

Khách sạn Bắc Kinh trực thuộc công ty CP Thương mại Phương Bắc là khách sạn 3 sao tầm cỡ Nghệ An. Với toà nhà 15 tầng, 1 sảnh điểm tâm và quầy bar sức chứa 200 khách, 2 sảnh nhà hàng tiệc cưới sức chứa 1100 chỗ ngồi, phòng họp đa năng sức chứa 100 chỗ, nhiều phòng ăn VIP từ 12 đến 30 khách, 3 phòng Karaoke, 12 phòng Massage và 76 phòng nghỉ được thiết kế hiện đại bậc nhất Nghệ An

Khách sạn Bắc Kinh - Beijing hotel
Địa chỉ: 110 Mai Hắc Đế  - Thành phố Vinh - Nghệ An
Điện thoại:  0918634888 (zalo) * 0334888246
Email: [email protected]
http://phuongbacna.vn

Tin tức - Sự kiện
Đồ lưu niệm Thủ công mỹ nghệ Cửa Lò

Năm Du lịch Quốc gia Duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012

Mùa hát Quan họ của liền Anh liền Chị - Bến hẹn lại lên!

Hiệu quả của Năm Du lịch Quốc gia 2011

Du Lịch Phan Thiết: cần tăng tour, nối tuyến

Hỗ trợ trực tuyến

Đặt phòng khách sạn - 0918634888

Văn phòng - 0334888246

Today: 958
Hit counter: 1,098,143
 
ĐIỂM ĐẾN > CAMPUCHIA
Print - Views: 1611
Ðời sống thời đại Angkor
 

Qua hằng trăm di tích trên khắp đất nước Cambodia ngày nay, nhân loại biết được có một nền văn minh Khmer rực rỡ hiện hữu cách đây ngót một ngàn năm vốn đã chìm sâu trong quá khứ, khiến người ta bâng khuâng tự hỏi cuộc sống con người thuở ấy sinh hoạt ra sao.

May thay, một tài liệu viết tay miêu tả khá tỉ mỉ về kinh đô Khmer cổ xưa được Châu Ðạt Quan (Chou Ta-Kuan) để lại. Năm 1295, ông ta đến Angkor làm đặc sứ cho Timur Khan, hoàng đế Mông Cổ thống trị nước Trung Quốc, kế vị Hốt Tất Liệt (Khublai Khan).

Vào thời ấy, Jayavarman VII, vị vua hùng mạnh cuối cùng của dân Khmer đã chết từ trăm năm trước. Thời cực thịnh của Angkor không còn nữa và vương quốc này đang độ suy tàn dần nhưng lãnh thổ mênh mông của đất nước Cambodia vẫn còn nguyên vẹn; và mặc dầu không còn xây dựng thêm đền đài mới, dân Khmer vẫn vui hưởng nền văn minh mà Angkor để lại. Với khuynh hướng bảo thủ, cách sống của họ vẫn hệt như trước. Do vậy, bài thuật của Châu Ðạt Quan tuy viết vào thời này vẫn có thể xem như miêu tả đời sống của Angkor thời Jayavarman VII hay vài thế hệ sau.

Châu Ðạt Quan tả các tháp bốn mặt trên cổng vào thành Angkor Thom cũng như ngày nay, chỉ khác là tháp trung tâm của mỗi cổng được dát vàng. Ở trung tâm của kinh đô có một tháp vàng với hai mươi tháp đá chung quanh (phải chăng là đền Bayon?). Phía Ðông của đền có một cây cầu dát vàng, hai bên có hai tượng sư tử bằng vàng, và tám pho tượng Phật cũng bằng vàng, mỗi tượng ngồi trong một ngôi miếu nhỏ bằng đá. Cung điện cũng như nhà của các quan đều quay về hướng Ðông, tất cả đều bằng gỗ và mái ngói có màu vàng đất nung. Ở điện nơi vua thiết triều, các cửa sổ đều có khung cửa bằng vàng. Châu Ðạt Quan nghe nói bên trong cung vua rất tráng lệ nhưng canh gác rất nghiêm ngặt.

Ông Châu được chứng kiến nhiều lần cảnh vua ra khỏi cung và miêu tả một số hình ảnh khá lý thú về những dịp quan trọng đó. Vua mang giáp, đầu đội vương miện bằng vàng hoặc một vành kết hoa có mùi thơm như hoa nhài. Cổ đeo những dây ngọc trai, tay, chân mang dây chuyền vàng, và các ngón tay có những nhẫn vàng. Vua đi chân trần, ở gót và lòng bàn tay nhuộm đỏ. Tay cầm thanh gươm vàng Preah Khan (ngày nay vẫn còn dùng như biểu trưng quyền uy của vương quốc Cambodia).

Dẫn đầu là đoàn thiếu nữ tay cầm đồ dùng bằng vàng hoặc bạc, tiếp đến là đoàn xe dê hoặc ngựa kéo, tất cả đồ trang trí đều bằng vàng. Khoảng hơn một trăm cây lọng điểm tô bằng vàng, cán cầm cũng bằng vàng. Tiếp theo, nhà vua, tay cầm kiếm vàng đứng trên một con voi lớn, hai ngà bọc toàn vàng. Bảo vệ quanh vua là vệ quân gồm các nữ binh tay cầm giáo và khiêng, cùng những kỵ binh cỡi ngựa hoặc voi. Vương tôn công tử, đại thần, các nhà chiêm tinh được rước kiệu có điểm vàng, mỗi kiệu có bốn lọng với cán bằng vàng che hai bên, trong khi quan nhỏ chỉ được che với lọng có cán bạc. Các nhà sư đầu cạo nhẵn, mặc cà sa vàng để hở trần bên vai phải. Họ cũng được che lọng với cán vàng hoặc bạc tùy theo chức sắc.

Về ngành thiên văn, Châu Ðạt Quan cung cấp rất ít thông tin, ngoại trừ cho biết rằng các nhà chiêm tinh có thể tính được khi nào có nguyệt hay nhật thực.
Vương quốc Khmer hầu hết đều là rừng hoang, đầy dẫy cọp, voi, hưu, gấu, khỉ, tê giác. Ở vùng Ðông Nam Á không có sư tử nhưng lại thấy nhiều trên các huy hiệu, đồ trang trí hoặc tượng đá. Chim muông gồm công, két đuôi dài, ưng, trĩ, gà rừng, và nhiều loại khác nữa. Vịt trời, chim cốc, thiên nga thường xuyên lui tới các hồ lớn cạnh bên Angkor; trong khi ở Biển Hồ có nhiều loại cá, tôm khổng lồ, rùa, cá sấu; riêng cá sấu, theo Châu Ðạt Quan thì rất lớn.

Trên các vùng đồi núi có trâu bò rừng, ngựa hoang, và người rừng. Những người rừng này bị săn bắt đem về phố bán làm nô lệ với giá rẻ. Dân miền núi săn bắt sản vật rừng như mật ong, nhựa cây, mây, tre, nứa, ngà voi, sừng tê giác, lông chim, trái rừng về phố đổi chác lấy những thứ cần thiết cho nhu cầu đơn giản của họ.

Khu vực bình nguyên rộng lớn quanh Angkor được dùng để khai khẩn nông nghiệp. Những hệ thống dẫn thủy tuyệt vời cùng những hồ chứa nước nhân tạo mang phù sa màu mỡ cho đất canh tác. Làng mạc nông dân nằm giữa cánh đồng, họ dùng lưỡi cày, cuốc, liềm để làm việc đồng áng. Thu hoạch ba bốn vụ mùa mỗi năm, ngoài ra họ còn gieo trồng thêm hoa màu, mía, và cây ăn trái. Có lẽ họ dùng trâu để cày bừa, nuôi heo, cừu, dê, gia súc, ngựa, ngổng, và gà vịt để lấy thịt. Muối lấy từ các ruộng lúa ven biển.

Châu Ðạt Quan, lẽ tự nhiên coi các dân không phải người Hoa đều là man di, miêu tả người Khmer thô kệch, có màu da rất sậm, nhưng “ở các lâu đài, cung điện, nơi không bị ánh nắng thiêu đốt, nhiều phụ nữ có màu da trắng như ngọc.” Ðàn ông, đàn bà để ngực trần, chỉ vấn che phần dưới rốn một tấm vải hoặc lụa, và đi chân đất. Ðầu búi, không đồ trang sức nhưng chỉ mang vòng và dây chuyền vàng. Ngay đàn bà lao động cũng mang đồ nữ trang rẻ tiền. Ðàn ông, đàn bà như nhau, họ đều xức xạ hương hoặc các thứ dầu thơm khác.

Chợ ở phố cũng nhỏ và tồi tàn như chợ làng, chỉ toàn đàn bà buôn bán nhỏ. Không có hàng quán cố định, ngày ngày họ trải chiếu trên đất bên vệ đường bày hàng hóa ra bán. Họ ngồi chồm hỗm, miệng nhai trầu và tán gẫu với người cạnh bên. Một hình ảnh quen thuộc vẫn còn thấy ở các nước Ðông Nam Á. Mua bán nhỏ, họ trả bằng gạo, ngũ cốc, hoặc đại loại tương tự, nhưng đồ giá trị hơn thì được trao đổi bằng vàng hay bạc.

Thương gia Hoa kiều thì có mặt khắp nơi. Họ thích đến đây làm ăn sinh sống vì, theo họ, đây là nơi dễ buôn dễ bán, gạo cơm dư thừa, đàn bà dễ kiếm, nhà cửa, đồ đạc gia dụng rẻ rúng. Vào thời này, hàng hóa các thứ từ Trung Hoa thường xuyên được mang đến bằng thuyền biển hoặc lạc đà. Họ mang đến những thứ mà dân Khmer ưa chuộng như lụa màu, khay cẩn, đồ men sứ trắng xanh, dù, lược, thức ăn, kim loại quí và những vật liệu tiện ích khác.

Giới quan quyền, học thức, sống tập trung ở những trung tâm lớn. Chỉ người có chức quyền cao mới được ở nhà lợp ngói, ngoài ra thì toàn mái tranh.
Mỗi nhà không có hệ thống nước hay cống rãnh. Người ta tắm nơi công cộng mà hồ và kênh đào có khắp mọi nơi. Về vấn đề vệ sinh, họ đào nhiều lỗ trong sân nhà rồi tạm lấy cỏ lấp lại sau mỗi lần dùng đến. Châu Ðạt Quan còn thêm: “Nhiều đàn bà đái đứng trông thật kỳ cục.”

Ngoài bài miêu tả của Châu Ðạt Quan về Angkor, không còn chứng tích gì để lại nhắc nhở đến đời sống của kinh đô ấy.

Angkor bị lãng quên như thế nào?

Người Thái tấn công cướp phá Angkor năm 1431, qua năm sau Angkor bị bỏ phế và từ đó nhân loại quên lãng nó đi đến vài thế kỷ. Mặc dù người Khmer không bao giờ trở lại Angkor Thom trong suốt 400 năm, nhưng kinh đô ấy vẫn còn lưu giữ trong ký ức họ. Thỉnh thoảng khi được hỏi đến, họ kể lại cho những người Âu nghe, và những người này không bao giờ tin, cho đó chỉ là những nơi tưởng tượng như khi người ta nhắc đến các kho tàng của Vua Solomon, hoặc lục địa Atlantis bị chìm đắm dưới đáy Ðại Tây Dương.

Khi người Pháp lập thuộc địa trên ba nước Ðông Dương, họ bắt đầu chú ý đến những lời truyền miệng ấy ít nhiều. Thế rồi một buổi sáng năm 1860, một nhà thiên nhiên học người Pháp tên Henri Mouhot tình cờ rẽ vào một góc rừng từ một đường mòn của dân tiều phu, qua kẽ lá lùm cây ông nhìn thấy những ngọn tháp xám xịt của Angkor Wat. Mouhot sững sờ, không tin những gì mình thấy là thật. Sau đó ông viết lại rằng giữa chốn thâm u cô tịch bỗng khám phá ra Angkor, thấy như giữa nước Cambodia lạc hậu của thế kỷ 19 tìm thấy lại nền văn minh rực rỡ của dân tộc này có từ hằng bao thế kỷ trước, như sự chuyển đổi giữa u tối sang ánh sáng.

Các sử gia chưa hiểu vì sao Angkor bỗng nhiên tàn rụi nhưng nhiều yếu tố khác nhau có thể đóng góp phần nào cho lời giải thích:
1. Việc xây dựng ồ ạt của Vua Jayavarman VII đã làm kiệt quệ tài nguyên của đất nước Khmer.
2. Cuối thế kỷ 13, Phật Giáo Tiểu Thừa du nhập từ Tích Lan. Một tín ngưỡng giản dị đến nỗi không tin có một đấng thần linh mà đặt trọng tâm vào tín điều giải thoát do nỗ lực của mỗi cá nhân. Tính chất bình đẳng của giáo thuyết này làm suy yếu hẳn hệ thống đẳng cấp của đời sống xã hội và chính trị Khmer xây dựng theo Bà La Môn.
3. Ðể phòng thủ chống những cuộc tấn công cướp phá liên tục của quân Thái khiến vương quốc phải hao tổn nhân lực trầm trọng, không đủ người để bảo quản hệ thống dẫn thủy nhập điền cần thiết cho sản xuất nông nghiệp đủ để nuôi một dân số xấp xỉ một triệu người.

Theo thăm dò gần đây, diện tích đất quần cư của Angkor thời cổ đại lớn gấp ba lần mà người ta vẫn tưởng. Angkor bấy giờ rộng đến 3,000km vuông, xấp xỉ Los Angeles ngày nay. Việc cung cấp nước thời ấy là một hệ thống kênh đào duy nhất chạy từ trung tâm kinh đô Angkor ra xa hơn 20km. Cái hệ thống mà mãi đến gần đây người ta vẫn tưởng để làm mỹ quan đô thị và dùng trong các cuộc tế lễ, nhưng nay mới hay là dùng để cung cấp nước cho các ruộng nương, sản xuất lúa gạo hằng loạt. Một hệ thống dẫn và thoát nước tinh vi được thực hiện để nuôi dưỡng một dân số quá đông, trong đó gồm việc chuyển hướng chảy của dòng sông Siem Reap cho đi qua trung tâm đô thị. Công trình tinh vi đến nỗi dân Khmer có thể trồng và thu hoạch nhiều vụ lúa mỗi năm thay vì một lần do phải trông vào mùa mưa để có nước cho ruộng.

Những phân tích mới nhất về hệ thống dẫn thủy hé rạng cho thấy phần nào nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của một nền văn minh huy hoàng. Nhiều vết tích cho thấy có sự vỡ đê, cùng những nỗ lực sửa chữa các hệ thống kinh đập, như vậy hệ thống dẫn thủy nhiều lúc trở nên ngoài tầm kiểm soát. Khi việc bảo quản hệ thống dẫn thủy trở nên ngoài tầm tay, sau khi cây rừng bị tàn phá quá nhiều gây nên nạn đất chuồi đổ thẳng xuống các kênh ở mức độ quá nhanh không đủ nhân lực để nạo vét, gây nên bế tắc. Thêm vào đó dân cư quá đông, việc phá rừng bừa bãi, đất màu mỡ trên mặt bị bào mòn góp phần cho sự đột ngột biến mất của cư dân trên kinh đô này. Angkor đã bành chướng quá mức, một nền nông nghiệp đã bị khai thác quá mức, đưa đến những vấn đề môi sinh cực kỳ nghiêm trọng.

Giả thuyết thì nhiều nhưng không có thuyết nào giải thích rõ Angkor Thom bị vua quan cùng dân chúng bỏ phế mà đi lập kinh đô ở nơi khác như thế nào. Nghi vấn hợp lý nhất là phải có một biến cố nào đó thật kinh thiên động địa đã xảy đến với Angkor khiến cả dân Khmer lẫn quân thù của họ là người Thái, vì quá sợ hãi, mà không còn dám lưu lại để sinh sống. Nguyên nhân nào khiến mọi người đều đồng loạt bỏ cái kinh đô lớn bậc nhất thế giới mà đi. Chưa ai biết rõ. Cũng chẳng ai biết được người ta kéo nhau đi bỏ lại Angkor sau lưng trong một ngày, một tháng hay một năm. Không một tài liệu, chứng tích, hay ngay cả lời khẩu truyền còn lưu lại nhắc nhở đến cuộc ra đi vĩ đại ấy. Hơn một triệu người bồng bế nhau ra đi, không một lời kể lại. Một điều đáng suy ngẫm thay!
Triêu Phong

 
 

Khách sạn Bắc Kinh - Beijing hotel
Địa chỉ: 110 Mai Hắc Đế  - Thành phố Vinh - Nghệ An
Điện thoại:  0918634888 (zalo) * 0334888246
Email: [email protected]
http://phuongbacna.vn

 
Chat ngay

0918634888